Người nói Tiếng_Java

Từ Jawa (Java) được viết bằng chữ Java.

Ngôn ngữ này được sử dụng ở Yogyakarta, Trung JavaĐông Java, cũng như bờ biển phía bắc Tây Java. Nó cũng là ngôn ngữ của người Java sinh sống tại các tỉnh khác của Indonesia (người Java có mặt khắp Indonesia do chương trình di chuyển dân cư của chính phủ vào cuối thế kỷ 20), bao gồm các tỉnh Lampung, JambiBắc Sumatra. Ở Suriname, tiếng Java creole hoá là ngôn ngữ của một bộ phận người dân là hậu duệ của công nhân đồn điền được người Hà Lan mang đến vào thế kỷ 19. Ở Madura, Bali, Lombok và vùng Sunda của Tây Java, nó cũng được sử dụng như một ngôn ngữ văn học. Nó từng là ngôn ngữ hoàng cung ở Palembang, Nam Sumatra, cho đến khi cung điện bị người Hà Lan cướp phá vào cuối thế kỷ 18.

Tiếng Java được viết bằng chữ Latinh, chữ Javachữ Ả Rập.[12] Ngày nay, chữ Latinh là hệ chữ chính dùng để viết, mặc dù chữ Java vẫn được dạy như một phần môn tiếng Java, một môn học bắt buộc ở cấp tiểu học cho đến cấp trung học ở Yogyakarta, Trung Java và Đông Java.

Tiếng Java là ngôn ngữ đứng thứ mười về số người bản ngữ và ngôn ngữ không chính thức được sử dụng nhiều nhất. Nó được nói bởi khoảng 100 triệu người. Ít nhất 45% tổng dân số Indonesia là người gốc Java hoặc sống ở khu vực mà tiếng Java là ngôn ngữ chính. Tất cả bảy tổng thống Indonesia kể từ năm 1945 đều là người gốc Java.[13] Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi người Java có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của tiếng Indonesia, ngôn ngữ quốc gia của Indonesia.

Có ba phương ngữ chính: Trung Java, Đông Java và Tây Java. Ba phương ngữ này tạo thành một cụm phương ngữ từ phía bắc Banten ở cực tây của Java đến Banyuwangi Regency ở góc phía đông của hòn đảo. Tất cả các phương ngữ Java đều ít nhiều thông hiểu lẫn nhau. Sự khác biệt chủ yếu ở cách phát âm, nhưng cũng có sự khác biệt về từ vựng.

Dù dấu vết tiếng Java cổ nhất ta có được là từ "bản khắc Tarumanegara" niên đại năm 450 công nguyên. Ví dụ cổ nhất về một văn bản viết hoàn toàn bằng tiếng Java là "bản khắc Sukabumi", có niên đại năm 804. Bản khắc này, tìm thấy ở phó huyện Pare, huyện Kediri, Đông Java, thực sự là một bản sao của một bản gốc cổ hơn khoảng 120 năm; chỉ bản sao này được bảo tồn. Nội dung của nó là về việc xây dựng một con đập cho một kênh thủy lợi gần sông Śrī Hariñjing (Srinjing ngày nay). Bản khắc này là bản cuối cùng được biết đến được viết bằng chữ Pallava; tất cả văn bản tiếng Java về sau được viết bằng chữ Java .

Bản thảo lá cọ Kakawin Sutasoma, một bài thơ tiếng Java thế kỷ 14.